Diễn đàn học sinh chuyên Toán (08-11) - Trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ - Hòa Bình
Chào mừng bạn đến với "Maths4rum"!
=> Click "Đăng Nhập": để đăng nhập vào Forum
=> Click "Đăng Kí": để trở thành Member của Forum
=> Click "Do Not Display Again": để hệ thống này không hiện nữa
*Khách viếng thăm chỉ có thể xem toàn bộ tựa đề bài viết trong Forum.
*Bạn là "New Members". Xin ghé sang phần "Hướng dẫn sử dụng" để tìm hiểu thêm các chức năng của Forum
Diễn đàn học sinh chuyên Toán (08-11) - Trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ - Hòa Bình
Chào mừng bạn đến với "Maths4rum"!
=> Click "Đăng Nhập": để đăng nhập vào Forum
=> Click "Đăng Kí": để trở thành Member của Forum
=> Click "Do Not Display Again": để hệ thống này không hiện nữa
*Khách viếng thăm chỉ có thể xem toàn bộ tựa đề bài viết trong Forum.
*Bạn là "New Members". Xin ghé sang phần "Hướng dẫn sử dụng" để tìm hiểu thêm các chức năng của Forum
Diễn đàn học sinh chuyên Toán (08-11) - Trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ - Hòa Bình
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.



 
Trang ChínhTrang Chính  GalleryGallery  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Nơi đây lưu giữ những kỷ niệm đẹp của tập thể lớp chuyên Toán 08-11, trường THPT Chuyên Hoàng Văn Thụ, Hòa Bình
 minh_ilm (4445)
 †._.[T]rouble♥[M]aker._.† (2330)
 so noisy-13 (1878)
 hoai_ze_93 (1877)
 rua_93 (1511)
 ni_co_an_thit_cho_93 (1471)
 truongson (1315)
 reddevil1212 (1213)
 ThắngPQ (1115)
 Trung_trâu (1059)
Năm ngoái có Làm ơn, Tiết Học Cuối... năm nay có Lời Tạm Biệt
10 lý do không nên học Bách Khoa - giống khen hơn là chê
Wish You Were Here - Avril Lavigne
TB SỐ 1: Xây dựng 2 tuyến tàu cao tốc từ thành phố FB về quê
Nobody's Home - Avril Lavigne
TB SỐ 2: Xây dựng hệ thống Like và Dislike
Thân gửi đến tất cả các thành viên lớp hiện đang tham gia diễn đàn
Tất cả thành viên chú ý: Thông báo đặc biệt về việc đưa ảnh lên forum
Thông báo về việc xúc tiến hoạt động của Ban liên lạc lớp
Lấy ý kiến về việc tên miền tiếng việt
Thông báo: Mở chuyên mục Kì thi TN - ĐH 2011
Admin ra tuyên bố cảnh cáo thành viên BQT
Chiến dịch dọn dẹp bài viết lần 2
Yêu cầu các thành viên khai đúng thông tin cá nhân
Thông báo thay đổi việc xét cấp bậc

Thời gian: 29/10/10, 08:03 pm
Trả lời: 4 lượt trả lời cho bài này');" onmouseout="tooltip.hide();" href="/t3900-topic">Thông báo "Chiến dịch dọn dẹp bài viết"

Tuyển mod cho 4r
Sử phạt nghiêm thành viên post bài sai box...
Các thành viên chú ý!!
V/v thành viên đăng ký mới
chung  
TranTruongDuc  
TranTruongDuc  
Trung_trâu  
TranTruongDuc  
Trung_trâu  
Trung_trâu  
Trung_trâu  
Trung_trâu  
Trung_trâu  
Trung_trâu  
Trung_trâu  
Trung_trâu  
Trung_trâu  
Trung_trâu  
Trung_trâu  
Trung_trâu  
Trung_trâu  
Trung_trâu  
Trung_trâu  

Share | 
 

 Illuminati

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
Khách vi
Khách viếng thăm



Illuminati _
Bài gửiTiêu đề: Illuminati   Illuminati Empty08/04/10, 03:48 pm

Loading
Illuminati (Tiếng Latin Illuminati số nhiều
của illuminatus, "giác ngộ, khai sáng") là tên của một số tổ chức
liên hiệp bí mật có thật trong lịch sử và được khai thác nhiều trong
các tác phẩm giả tưởng. Trong lịch sử, hội Illuminati chính thống phát
sinh từ ngày 1 tháng 5 năm 1776 tại khu Bavaria vào thời kỳ Khai sángchâu
Âu
. Trong nhiều tiểu thuyết và phim ảnh ngày nay, tổ chức
Illuminati thường được nêu lên như những thế lực bí mật nằm sau các
chính quyền và công ty thương mãi khổng lồ, điều khiển mọi lĩnh vực của
thế giới từ tôn giáo đến kinh tế và chính trị. Những người tin vào giả
thiết âm mưu rằng Hội Illuminati là động lực tạo nên phong trào Trật Tự
Thế Giới Mới
.

Mục lục


[ẩn]



//

[sửa] Lịch sử

Illuminati 140px-Adam_Weishaupt01Illuminati Magnify-clip

Adam
Weishaupt






Tổ chức Illuminati được giáo sư Adam
Weishaupt
tại đại học Ingolstadt thành lập ngày 1
tháng 5
năm 1776.
[1][2]
Hội này gồm những người có suy nghĩ tự do, con đẻ của thời kỳ Khai
sáng [3].
Nhiều người như nhà văn Seth Payson tin rằng hội này lãp ra với âm mưu
trà trộn vào và lật đổ chính quyền [4].
Thậm chí những văn hào như Augustin
Barruel
John Robison
còn cho rằng hội Illuminati là thế lực phía sau của Cách mạng Pháp. Nhưng sau đó Jean-Joseph
Mounier viết sách phản bác nhận định này.[5]
Thành viên của Hội Illuminati được gọi là "Illuminati", nhưng họ tự
đặt tên "Perfectibilists" (người theo chủ nghĩa toàn hảo).
Thành viên phải tuyên thệ trung thành với cấp trên và được chia làm 3
hạng, mỗi hạng có nhiều bậc, họp tại các chi nhành được thành lập tại
nhiều nước trong lục địa châu Âu. Trong 10 năm hội có đền gần 2,000
thành viên.[2]
Về sau, tranh chấp nội bộ làm hội suy yếu, và gải thể bởi luật cấm năm 1784.
Năm 1777
lãnh chúa độc tài Karl Theodor
thống trị khu Bavaria. Năm 1784 ông ra lệnh
cấm các hội bí mật, trong đó có nhóm Illuminati. Trước khi bị quốc cấm,
Hội được nhiều nhân vật quan trọng trong chính giới nghe theo, trong đó
Ferdinand
of Brunswick
và nhà ngoại giao Xavier von Zwack. Ông von Zwack được
xem như là phó thủ lãnh của hội và khi ông bị bắt, lính nhà nước tìm ra
quả tang các hồ sơ về hội Illuminati trong nhà của ông ta.
Hội Illuminati được các nhà văn hóa, trí thức hay lãnh tụ chính quyền
trọng vọng - trong đó Johann Wolfgang von Goethe. Johann
Gottfried Herder
, và quân công của khu vực GothaWeimar.
[sửa] Hội
Illuminati ngày nay



Bài
chi tiết: Trật Tự
Thế Giới Mới



Nhiều tác giả như Mark Dice,[6]
David Icke,
Ryan Burke, Jüri Lina và Morgan Gricar, cho rằng hội Illuminati sau khi
giải thể vẫn ngấm ngầm tồn tại và tiếp tục hoạt động bí mật cho đến ngày
nay. Chủ thuyết
Âm mưu
cho rằng những biến cố xảy ra trên thế giới - từ kinh tế,
tôn giáo đến chính trị, quân sự - là do những tổ chức có thế lực kín đáo
nằm sau các chính phủ gây ra theo kế hoạch bí mật.[7][8]
Họ còn cho rằng Winston Churchill, và gia đình tổng thống Bush,[9]
Barack Obama, [10]
gia đình Rothschild,[11]
David
Rockefeller
Zbigniew
Brzezinski
. [12]
là hoạt động cho những kế hoạch có tổ chức bí mật này.
Ngoài những tổ chức bí mật này còn có những tổ chức công khai tự nhận
là "hậu duệ" của nhóm Illuminati gốc Bavaria như nhóm "The Illuminati
Order"[13][14][15]
[sửa] Trong
văn hóa xã hội



Vì tính bí mật và không thể chứng minh được là có thật hay không, tổ
chức Illuminati được dùng làm chủ đề cho nhiều tác phẩm văn hóa như tiểu
thuyết [16]
phim ảnh,[17]
trên TV,[18]
và các trò chơi máy tính,[19]
truyện bằng tranh,[20]
và các loại trò chơi dùng lá bài. [21]
Về Đầu Trang Go down
Khách vi
Khách viếng thăm



Illuminati _
Bài gửiTiêu đề: Re: Illuminati   Illuminati Empty08/04/10, 03:49 pm

Loading
GA_googleCreateDomIframe('google_ads_div_300x250_Above_article' ,'300x250_Above_article');
//


Illuminati 40140417_131526sm
TS - Tuần qua, Đài truyền hình Đức DW, xem được ở VN trên truyền hình
cáp, đã một lần nữa nhắc đến tổ chức huyền bí “Illuminati” qua một phóng
sự về việc đi tìm một bộ hồ sơ mật về tổ chức này từ thời nước Đức còn
là nước Phổ bị “lạc” sang tận Nga.

Không dừng lại thời xa xưa đó, Illuminati ngày nay còn
được xem là đã xâm nhập tận trong các trung tâm quyền lực ở Mỹ. Marcus
Allen của tờ Nexus Magazine cho rằng toàn bộ hệ thống chính trị
ở Hoa Kỳ và Anh là do... một nhóm trí thức ưu tú thuộc Illuminati kiểm
soát.

Ở Mỹ, Illuminati được xem là có chân rết trong Hội đồng
Ngoại giao, một hội đồng hoạch định chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
(xem The Illuminati and the council on foreign relations, Myron
Fagan),
và một hội kín mang cái tên rất “hình sự” là Skull and
Bones” (Sọ và xương người). Đề quyết này cũng tương tự như việc cho rằng
ở Pháp hội Tam Điểm len lỏi tận trong các chính quyền.

Illuminati 40140417_131527sm
Một số tác giả cho rằng không chỉ ngày nay, mà ngay từ thời Tổng thống
Jefferson, Illuminati đã từng hoạt động ở Mỹ và rằng chính Thomas
Jefferson đã từng tuyên bố rằng dự định của hội kín này là truyền bá các
nguyên tắc của một đạo lý chân thật. Theo họ, dấu vết cụ thể nhất của
Illuminati ở Mỹ chính là những dấu chỉ bí mật trên tờ giấy bạc 1 đôla
Mỹ.

Phía sau tờ giấy bạc này ta thấy bên trái có một kim tự
tháp chưa xây xong, còn thiếu hòn đá chóp; trên có hình con mắt, con
mắt thấy hết mọi sự. Phía dưới tháp có khẩu hiệu “Novus ordo seclorum”
(có nghĩa là “trật tự mới toàn cầu”).

Illuminati 40140417_131528sm
Bên phải có con chim phượng hoàng, mang một tấm vải vuông trước bụng;
trên đó thường có vẽ những biểu tượng bí ẩn. Nếu đúng là như thế, thế
lực của Illuminati quả là đáng gờm khi khẩu hiệu và biểu hiệu của họ
không hiểu vô tình hay cố ý mà được in trên giấy bạc 1 đôla.

Trong quốc ấn của Hoa Kỳ cũng có điểm bí ẩn tương tự:
hình kim tự tháp mất đầu và bên trên có một con mắt - gần giống với biểu
tượng của Illuminati. Những hình ảnh này được xem là bằng chứng mẫu cho
cái nhìn bao quát từ xưa đến nay của Illuminati lên người Mỹ. Điều này
cũng đưa ra những nghi vấn về sự sống còn của Illuminati ở Mỹ khi được
xem là một thế lực đen đứng sau các ngân hàng trên toàn cầu và mới đây
nhất là có dính líu đến sự kiện 11-9 ở Mỹ năm 2001.

Cho dù hầu như không thể chỉ ra những “chứng cứ tội
phạm” của một mạng lưới những âm mưu giấu kín trong bóng tối, nhưng cũng
phải thừa nhận rằng Illuminati, hội Tam Điểm cùng các hội nhóm khác đã
bí mật tác động đáng kể lên một số sự kiện thế giới từ 200 năm qua cho
đến nay, trong đó có vụ ám sát Thủ tướng Thụy Điển Olaf Palme năm 1986
và cả các vụ tấn công khủng bố của thế giới Hồi giáo.

Trong hơn 200 năm qua, hội kín đầy bí ẩn này đã chất
chứa vô số giai thoại nổi tiếng. Nhiều nhà nghiên cứu đã cất công tìm
hiểu sự thật đằng sau thần thoại này. Thông thường người ta gọi là
Bavarian Illuminati, để chỉ gốc gác hội kín này do ông Weishaupt lập ở
Bavaria (Đức) vào năm 1776. Illuminati theo tiếng Latin có nghĩa là
những người được thần linh khai sáng. Illuminati có lẽ là hội kín bí mật
nhất trong số các hội kín trên thế giới.

Mục đích tối hậu của hội kín này là lật đổ thế quyền và
thần quyền khắp nơi, cải biến bản chất của con người và thống trị toàn
thế giới, liên kết mọi quốc gia dân tộc thành một đế chế toàn cầu. Chính
vì thế, Illuminati còn được dùng đồng nghĩa với “trật tự thế giới mới”.

Thường thì Illuminati hoạt động trong bóng tối, bí mật
kiểm soát các vấn đề của thế giới, trong hậu trường chính trị. Lực lượng
của Illuminati bao gồm những trí thức có thế lực và những chính khách
cấp tiến, trong đó có cả những văn tài thế giới như Goethe và Herder...
Có nhiều ý kiến cho rằng thành viên của hội này cơ bản được lôi kéo từ
hội Tam Điểm dù không có bằng cớ chứng minh cho liên hệ này.

Illuminati tỏa ra khắp các nước châu Âu dưới dạng nhóm
bán công khai. Ở Anh có hội Fabian và hội Round Table; ở Mỹ có Hội đồng
Ngoại giao. Illuminati còn được xem là có chân trong Câu lạc bộ Rome mà
đằng sau các tổ chức này là một thành phần cốt yếu gồm các nhà băng quốc
tế; đặc biệt là các tập đoàn tài chính Rothschild và Rockefeller.
Illuminati tồn tại dưới nhiều danh xưng, nhiều hình
thức bí mật, bán bí mật, công khai, với nhiều cơ quan có “bảng hiệu”
khác nhau. Một vài nguồn tin cho rằng Bavarian Illuminati vẫn tồn tại
cho đến hôm nay, dù rất ít chứng cứ cho thấy hội kín này của Weishaupt
tồn tại đến thế kỷ 19. Tuy nhiên, một vài hội nhóm đã dùng cái tên
Illuminati để gọi cho hội nhóm mình như Grand Lodge Rockefeller của
David Goldman (Mỹ), Orden Illuminati của Gabriel López de Rojas (Tây Ban
Nha), và The Illuminati Order của Solomon Tulbure (Mỹ)
Về Đầu Trang Go down
Khách vi
Khách viếng thăm



Illuminati _
Bài gửiTiêu đề: Re: Illuminati   Illuminati Empty08/04/10, 03:50 pm

Loading
Hội Tam Điểm

Nguyễn
Văn Hoàng








I- Lịch sử hội Tam Điểm


1. Hội
Tam Điểm là gì?



Hội Tam Điểm tự coi
như là một dòng hệ kết nạp (Ordre Initiatique) các hội viên để huấn
luyện nhau bằng những biểu tượng (symbole) và các nghi lễ (rites) một
cách bí truyền (Esotérique), phi giáo điều (adogmatique), lũy tiến
(Progressif) tới sự hoàn thiện của nhân loại. Phương tiện hoạt động của
họ là làm việc phước thiện, khuynh hướng của họ lại thay đổi tùy theo
thời đại và xứ sở. Tổ chức Tam Điểm có rải rác trên nhiều quốc gia trên
thế giới, quy tụ những hội viên cấp tiến với mục đích tự cải thiện đời
sống tinh thần và đạo đức.















Hội
Tam Điểm thường được coi như là một tổ chức
đạo đức đặc biệt hình dung bằng những biểu
tượng. Họ tự cho như là một công cụ huấn
luyện ái hữu (outil fraternel) dùng những phương
pháp đặc biệt để huấn luyện các khả năng
nghe, suy nghĩ và đối thoại để có thể truyền
đạt các giá trị đã thâu hoạch được
cho các người chung quanh.




Nói
một cách đơn giản, hội Tam Điểm không phải
là một đảng chính trị vì không chủ
trương cướp chánh quyền, không phải là
một tôn giáo vì không loại bỏ tôn
giáo nào và không đi thuyết phục tín
đồ, không phải là một giáo phái
(secte) vì không theo một chủ thuyết nào
(doctrine). Sự kết nạp vào hội Tam Điểm rất khắt
khe, song sự ra hội lại rất tự do và thong thả.








2.
Mục tiêu của hội Tam Điểm:




Mục
tiêu chính của hội Tam Điểm là xây
dựng. Họ làm việc để xây dựng Đền Nhân
Loại (temple de l’humanité), nhiệm vụ của họ chỉ
chấm dứt khi toàn thể nhân loại được phát
triển. Dĩ nhiên với ngưỡng vọng một tương lai như
vậy, lý tưởng Tam Điểm chỉ là một huyền
thoại (mythe), nhưng người Tam Điểm vẫn tin tưởng vào
ngày có rất nhiều hội viên Tam Điểm trên
toàn cầu để kết thành một chuỗi người
đoàn kết (chaine d’union) có khả năng cho nhu
cầu cần nhất của trí tuệ loài người.





3.
Nguồn gốc của Hội Tam Điểm




Tuy
là các tổ chức Tam Điểm thật sự không
phải là một nghiệp đoàn bắt đầu xuất hiện
đầu tiên ở Ecosse (Tô Cách Lan) vào
thế kỷ thứ XVII, song họ đã cho rằng họ có
những nguồn gốc huyền bí, huyền thoại từ thượng
cổ.




Theo
Thánh kinh thì Vua David cho xây đền Salomon
để chứa Arche Dalliance (cái rương chứa các
phiến đá có khắc 10 điều răn (commandements),
dấu hiện liên kết (signe d’alliance) giữa Thượng
Đế và người Do Thái) trước đền có
hai cột đồng đen Jakin và Boaz, một biểu tượng
Tam điểm do Hiram de Tyr. Sau này, Hiram bị ba người
thợ ám sát vì họ muốn có bí
mậy xây cất của Hiram và người ta cho rằng
Hiram và Salomon là thủy tổ của Franc-Maconnerie.




Theo
các bản viết tay (Manuscrit) gọi là Old charges
(các trách vụ cũ) có tên là
“Régius” vào thế kỷ thứ 14, thì ngành
xây cất liên hệ tới khoa hình học
(Géométrie) do đám con của Lamech viết trên
các cột bằng đá. Sau cơn Đại hồng thuỷ
(Deluge), một người cháu của Noé, tên
Hermanis tìm ra những bí mật xây cất và
hình học trên các cột đá này
để đem dậy cho các người thợ xây tháp
Babel. Sau đó Abraham sang Ai Cập dậy hình học
cho Euclide để ông này đem về dạy ở Hi Lạp.
Tiếp đó, các người xây cất trở về
Jérusalem để xây đền Salomon.




Theo
bản Constitution d’Anderson (viết bên Anh năm 1723) thì
nghề xây cất đã khởi sự từ thời ông
Adam là người thợ xây cất đầu tiên đã
được Thượng Đế dạy cho hình học. Nhưng qua kinh
Cựu Ước (Ancien Testament) thì Vua Salomon là
Franc-Macon và là Grande Maitre của Loge (chi hội)
Jérusalem. Sau đó, “nghệ thuật hoàng gia”
(Art Royal) này mới truyền sang Hy Lạp, Ai Cập vào
đế quốc La Mã và người ta cho rằng Vua
Auguste (-14 cho tới 63 sau Công Nguyên) là
Grand Maitre du Loge de Rome vì ông ta đã là
người đỡ đầu cho kiến trúc sư Virtruve.




Trong
thời đế quốc La Mã, những nhóm ngành
nghề tụ họp thành Collégium để lo các
việc kinh tế và xã hội của hội như các
collégium của các nhà buôn đứng ra
điều đình với chính quyền để giữ độc
quyền như ngành buôn bán ngũ cốc lại được
miễn sưu thuế [1] và miễn dịch vụ. Mỗi ngành
đều có Thánh tổ và hàng năm họ lo
sửa lễ để mừng Thánh tổ. Họ cũng mời những
người có quyền thế (dĩ nhiên là có
giầu có) để bảo trợ bằng tài chánh và
thế lực và họ đền bù sự đóng góp
này bằng cách tặng cho các ân nhân
danh hiệu Patron (quan thầy).




Sau
đó, đế quốc La Mã bị các rợ Gothique
và Germanique từ Đức sang tàn phá vào
các thế kỷ từ VI tới thế kỷ IX thì không
còn thợ. Lần lần các ngành nghề mới
khôi phục lại thành các Guilde (gốc tiếng
Đức Gelt là đồng tiền)Thánh tổ của ngành
xây cất là thánh Jean d’Evangeliste và
ngày vía là ngày 27 tháng 12, Khi
được khai tên kết nạp (initier) người tập sự
phải tuyên thệ giữ bí mật nhà nghề. Vì
luôn luôn phải di chuyển từ công trường
tỉnh này sang công trường tỉnh khác, nên
họ có cách nhận nhau bằng những biểu tượng
(symbole) và những mật mã (code). Một người
thợ sang Pháp, được Charles Martel, ông của Vua
Charlemagne thâu nhận; một người khác là
Thánh Alban sang Anh và được Hoàng hậu
Edwin con ông Vua Anglo Saxon Athelstan bảo trợ tích
cực đến nỗi chính ông ta cũng thành maçon
(thợ xây cất)




Tới
đây, cũng nên nói qua về Thập Tự quân
với Hiệp sĩ dòng Temple de Salomon và nhóm
Rose Croix vì có ảnh hưởng tới Hội Tam Điểm
sau này.
Prieurés
de Sion
Năm
1000, một lãnh chúa là Godefroi de Bouillon ở
đất Thánh lập ra abbaye de Notre Dame du Mont Sion: khi
thấy các tín đồ đi hành hương tại
Jérusalem bị cướp bóc, các tu sĩ dòng
này đã bí mật can dự vào việc
thành lập ra dòng Hiệp sĩ Temple (1118) de Salomon
là một dòng quân sự do Hugue de Payns chỉ
huy, lấy tên là Pauvres Chevaliers du Christ (Bần
Hiệp Sĩ Thiên Chúa) để bảo vệ khách
hành hương. Họ đóng quân ở địa điểm
đền Salomon do đó lấy tên là Chevaliers du
Temple. Được Giáo Hoàng Innocent II tin cậy, dòng
này trở nên quyền thế và giàu có,
khiến cho Vua Philippe le Bel đố kỵ và ra lệnh tiêu
diệt nhóm này vào ngày thứ sáu
13/10/1307 (do đó có tiếng là ngày xui
xẻo). Thủ lãnh Jacques de Molay bị thiêu (1314),
dư đảng trốn sang Ecosse, tài sản bị tịch thu cho
nhà chung Hospitaliers. Nhóm Prieuré de Sion rút
vào bí mật và lấy tên là Rose
Croix (Rosae crucis) họ thành lập một hội thần bí
nhưng không dính tới tôn giáo nào
nữa. Họ có triết lý siêu hình và
hữu hình (metaphysique et physique) mục đích để
gợi những năng khiếu của con người. Hội nhắc các
đoàn viên tầm quan trọng của các định
luật vũ trụ và thiên nhiên và nên
áp dụng các luật đó. Chữ Rose crucien từ
gốc Latin có nghĩa là chữ thập và hoa
hồng do ở biểu tượng chữ thập và hoa hồng của
họ. Thủ lãnh của họ gọi là nautonier, như
Leonardo da Vinci, Isaac Newton, Victor Hugo, Jean Cocteau và
gần đây Pierre Blanchard. Do đó, Franc Maconnerie là
hậu duệ của Prieurés de Sion. Vài dòng về
chữ Franc-Maconnerie. Năm 1015 sau Công nguyên, tại
Strasbourg, một chi hội (loge hay atelier) đầu tiên của
các người thờ đẽo đá nhà thờ
Strasbourg được thành lập.




Năm
1119 Hội đồng các Giám mục thành Rouen
kết án các nghiệp đoàn (confrérie)




Năm
1245, bắt đầu xuất hiện tại Strasbourg các tục lệ
tiếp nhận hội viên và khuyến cáo các
hội viên giữ tình huynh đệ và giữ bí
mật. Cũng vào năm này có đại hội tụ
họp 5 chi hội lớn, ấn định các điều lệ đạo
đức, tôn giáo và nghề nghiệp.




Năm
1276 Vua Rodolphe 1er de Halsbourg ban miễn trừ (franchise) cho
các thợ đẽo đá nhà thờ Strasbourg.




Năm
1315 tại Strasboug có đại hội các thợ đẽo
đá và thợ xây dựng và các
người xây dựng lại lấy năm này là năm
khởi sự của Hội Tam Điểm mà ta gọi là
franc-maconnerie opérative tạm gọi là xây cất
đặc miễn đương hành. Vào năm 1356 tại Luân
Đôn có sự tranh giành giữa những thợ đẽo
đá (tailleurs de pierre) và người xây dựng
(poseurs de pierre) do đó có luật lệ năm 1411 ấn
định việc kiểm soát nghề nghiệp: người học
việc học 7 năm trời, phải ra trước một uỷ ban để
tuyên thệ trung thành với nghề, với thị xã,
với vua và lúc đó họ mới trở thành
người tự do hành nghề xây cất (free mason), có
thể chữ này cũng rút ngắn từ chữ freestone
mason tức là maçon de pierre franche là thợ
xây cất đá mềm, dễ đẽo và dễ điêu
khắc. Chữ “free mason” (franc macon) đã chính
thức được dùng từ năm 1376 và năm 1390 người
ta đã viết ra cuốn Thủ bút Régius hay
Manucrist Royal nói về tổ chức ngành xây
cất. Năm 1616 nhóm Rose Croix ra tuyên ngôn về
đường lối và mục đích như đã nói
ở trên (đoạn cuối về Prieuré de Sion).






4.
Tại Ecosse.




Năm
1583 Jacques VI con của Marie Stuart, nữ hoàng Ecosse lên
ngôi. Ông trao cho William Shaw quản lý tiền
bạc và xây các cung điện. Tuy lúc đó
Ecosse đã ngả sang Tin Lành, nhưng William Shaw vẫn
còn giữ Gia Tô Giáo và năm 1598 ông
đặt ra một số luật lệ quản lý, sắp đặt ngôi
thứ trong ngành xây cất trong đó có
nói tới những cách để nhận nhau. Năm sau,
Shaw lại còn định thêm là các bậc
thầy trong ngành xây cất phải có nhiệm vụ
huấn luyện người tập sự và dạy họ cách
để nhớ được các kỹ thuật đó. Bắt chước
người La Mã, họ cũng lựa một quan thày là
William Sinclair là lãnh chúa Roselin, vì
Sinclair là hậu duệ của vị hầu tước đã
cho xây Chapel Roselyn. Tới năm 1801 William Sinclair cũng
lấy tên là William, cho ra một cái charte cho
franc maconnerie và các lãnh chúa được
lãnh danh hiệu maçon từ đó. Hiện nay
charte này còn ở Chapel Roselyn.






5.
Maconnerie opérative và maconnerie spéculative




Cho
tới đầu thế kỷ 17 dòng xây cất vẫn là
những nghiệp đoàn gọi là Guilde (tiếng Đức
mà ra Gelt: đồng tiền) trong đó chỉ có
hai hạng thành viên, 1) tập nghề (apprenti) và
2) thợ bạn (compagnon) còn thầy nghề chưa có
mà chỉ có người điều khiển công trường;
khi vào nghề thì phải qua lễ kết nạp là
phải biết giáo lý (catéchisme), sự truyền
đạt các bí mật nghề nghiệp, các ngữ
vựng (vocabulaire) về các biểu tượng dùng
trong các nghi lễ và tập tục. Cho tới lúc
này ngành xây cất vẫn hoàn toàn
chỉ là
opérative
(xây cất đặc miễn đương hành) mà thôi.
Dần dần từ bên Anh và Tô Cách Lan mới
biến dạng thành
spéculative
(xây cất đặc miễn tự biện) (spéculare =
réfléchir) theo tiến trình sau đây:
Người xây cất cần sự giúp đỡ của các
giới chức tôn giáo, các quý tộc, các
chưởng khế là các người chủ trì các
công tác xây cất lớn, nên đã mở
cửa tiếp đón nhận các người này, ngược
lại sau trận hoả hoạn lớn tại Luân Đôn, cả
một đội binh xây dựng nhà thờ Gothique từ
Pháp sang Anh, du nhập vào giới quý tộc và
trí thức Anh những tư tưởng của Virtruve. Virtruve
là kiến trúc sư thế kỷ I trước công
nguyên viết cuốn De Architectura. Theo ông thì
người kiến trúc sư lý tưởng phải là
người vạn năng (universel), không những phải biết
hình học, biết dùng các vật liệu xây
cất mà còn phải biết thiên văn, khí
tượng, âm nhạc, y học, quang học, triết học, sử
học và pháp chế (jurisprudence). Vào thời
đó những người ở giai cấp cao và trí
thức có tư tưởng cấp tiến hay thần bí
(mystique) tìm hiểu vũ trụ và thế giới cùng
cắt nghĩa chỗ đứng của con người qua một thứ ngôn
ngữ và biểu tượng (symbole). Trong thời kỳ từ
1550-1710 lại có nhiều người nghiên cứu hoá
học và phép luyện giả kim (alchimie) ước mơ
như Sir Issaac Newton có thể đổi đá thành
vàng hay chì thành vàng. Ngay trong những
sách báo của Rosae Crucis (chữ thập hoa hồng)
từ Đức và Societé Royale d’Angleterre (sẽ nói
sau) cũng có những hội viên bí mật bàn
nhau về chuyện luyện giả kim. Họ vừa có tiền vừa
có kiến thức vừa có thế lực nên được
khai tâm kết nạp vào Franc Maconnerie, dùng
các biểu tượng, dùng các tập tục
(rituel) về phép luyện giả kim dùng thuyết tân
Platon (néoplatonisme) để lập ra những loge đầu tiên
cho họ mà ta gọi là franc maconnerie spéculative
(xây cất đặc miễn tự biện) hay franc maconnerie
philosophique (xây cất đặc miễn triết học).






6.
Franc maconnerie truyền bá sang Âu châu




Từ
năm 1640-1650 bên Anh có nội chiến, giết Vua
Charles 1er nhà Stuart theo đạo Gia Tô và con
là Charles II phải đi trốn. Dư đảng của ông
là nhóm jacobite ở lại bên Anh phải rút
vào bí mật. Họ vận động để khôi phục
lại nhà Stuart trong đó có nhóm
College Invisible là franc maçonnerie spéculative.
Khi Charles II được khôi phục thì College
Invisible đổi thành Royal Society (Societé Royale)
và Franc Maconnerie lại thịnh hành từ năm 1660
tới 1668, gồm nhiều tu sĩ, quý tộc, luật gia, và
thông thái. Nhưng từ năm 1669 thì Jacques II
Stuart lại bị cháu và cũng là rể là
Guillaume d’Orange lật đổ và Jacques II phải chạy
sang St Germain-en-Laye ở Pháp và tới năm 1721
Jacques II lại phải dời đi Bar le Duc rồi đi Avignon,
Cerlino và tới Rome.




Năm
1714, triều đình Anh ở trong tay nhà Vua Hanovre
(đối nghịch với nhà Stuart) thì nhóm
Jacobite định một lần nữa khôi phục lại nhà
Stuart với sự trợ giúp của Louis XIV, nhưng cuộc đổ
bộ thất bại (năm 1715), nhất là khi chính phủ
nhiếp chính (Gouvernement du Régent, kế tiếp
Louis XIV, lại thân Hanovre.




Ngày
24-06-1917 tại Londres có 4 chi hội The Goose and Gridiron
(con ngỗng và vỉ nướng chả), The Crown (vương
miện), The apple tree (cây táo), The Rummer and Grappe
(cái tách và chùm nho) kết hợp lại
thành Grande loge d’Angleterre sau này là nhóm
Modern dưới quyền một grand maitre để kiểm soát
mọi loge kể cả các loge jacobite.








A
- Constitution Anderson: Ancient và Modern




Năm
1731, Duc de Montaigne được bầu làm hội trưởng và
cho ra một bản constitution mới là constitution
d’Anderson do tu sĩ James Anderson soạn ra nói về lịch
sử franc maconnerie bên Anh, từ thời Adam tới thời
Jacques I, Charles I và Charles II được coi như là
franc maçon. Cuốn này (thân Hanovre) cũng khen
Guillaume III, Hoàng hậu Anne và George I. Từ đó,
những grand maitre được bầu ra đều thân Hanovre cả.
Như đã nói ở trên, những loge đầu tiên
đều ở Ecosse và theo statut Shaw rất độc lập. Họ
thi hành một trong hai tục lệ:




1.
Nghi lễ nhập hội của các nghiệp đoàn xưa
gọi là “Rite de anciens devoirs




2.
Hoặc là một tục lệ kết nạp (rituel d’initiation)
đơn giản hơn trong đó sẽ truyền những “bí
mật” còn gọi là “Rite du mot de maçon”.




Theo
constitution Anderson tháng Giêng 1723 người ta dung
hoà hai đường lối maconnerie anglicane (dùng Rite
des anciens devoirs) với maçonnerie d’origine calviniste
(dùng “Rite du mot de maçon”) bằng một quan
niệm tôn giáo rộng rãi hơn, gọi là
quan niệm về “religion naturelle” tuy rằng cũng quy chiếu
một chút về “Sainte Trinité” (Chúa 3
ngôi). Vào thế kỷ thứ mười bẩy, tại Anh có
chừng 30 loges (chi hội) quy tụ những người thành
thị, bình dân, thợ khéo và tiểu
thương và từ năm 1676 với uy tín và những
tập tục mới thu hút thêm các quý tộc
và lớp trưởng giả. Mục đích của họ là
làm phước thiện và tương trợ vì hồi
đó chưa có an ninh xã hội để lo bệnh
hoạn, thất nghiệp và phí tổn ma chay.




Từ
Grande Loge de Londres sau này sẽ truyền bá sang
Âu, Mỹ, Úc, Phi và Á châu. Một
vài năm sau, grande loge d’York và các loge
khác, thành lập một loge lớn khác lấy
tên là Grand loge of Ancient Mason chống lại grande
loge de Londres, cho rằng loge này đã mất đi tính
cách Thiên chúa trong các tục lệ. Tới
thời chiến tranh với Napoleon, thì hai loge lớn này
đoàn kết lại thành một loge duy nhất gọi là
United Grand Loge of England (1813) có khuynh hướng
ancient, buộc các hội viên tin vào Thượng
đế. Còn ở Pháp thì Napoléon lại
buộc các franc maçon phải quy tụ vào trong
Loge du Grand Orient một khuynh hướng modern, không buộc
hội viên phải tin vào Thượng đế.









B.
Sự tranh chấp Jacobite / Hanovrien tại Pháp: Grande Loge
de France




Tại
Anh, năm 1722 nhóm Jacobite bầu kên một Grand
Maitre chống Hanovrien là Duc deWharton để làm một
âm mưu gọi là âm mưu Atterbury, nhưng cũng
thất bại vì Duc d’Orléan, nhiếp chính ở
Pháp, thân Hanovrien, lại báo cho Anh biết
trước. Tuy vậy những hội viên Jacobite vẫn không
bị khai trừ khỏi hội và để giữ cho chi hội hoàn
toàn là Jacobite, họ rút vào bí
mật và thêm vào 3 cấp cũ trong tổ chức
của họ, 30 cấp trên nữa. Từ đó Grande Loge
d’Angleterre theo “Rite anglais” hay “hanovrien» chỉ
có 3 cấp và nhóm Jacobite tự nhận là
theo “Rite écossais ancien et accepté” (REAA) lại
có 33 cấp. Sau lần âm mưu thất bại, nhóm
Jacobite dời trụ sở chính sang Pháp và từ
năm 1726 chi hội đầu tiên đã được lập tại
Paris. Từ năm 1728-1738 có nhiều chi hội Tam Điểm
được thành lập tại Pháp và chia làm
hai nhóm Jacobite và Hanovrien. Constitution Anderson
được dịch ra tiếng Pháp và để thế vào
chữ tôn giáo tự nhiên (religion naturelle)
người dịch dùng chữ Thiên Chúa giáo
vì người Jacobite hoàn toàn theo Gia Tô
giáo. Người Franc Macon Jacobite nổi tiếng là
người écossais Sir Andrew Ramsey. Năm 1723, ông được
vời sang triều đình lưu vong Jacques III ở Rome. Ở
đây, ông gặp David Nairne sau này thành
bố vợ. Trở về Anh, ông xâm nhập được vào
Grande Loge d’Angleterre trong một loge Hanovrien 1727. Và
lúc đó thì ông phải nhìn nhận
sự thất bại của nhóm Jacobite. Năm 1733, ông
cùng Nairne nắm Grande Loge de France cho tới năm 1738
thì nhóm pro-hanovrien chiếm ưu thế trong Grande
Loge de France tại Paris, nên Ramsey và Nairne phải
về Saint Germain en Laye dể lập riêng một loge hoàn
toàn Jacobite. Tháng Giêng năm 1738 nhóm
Hanovrien ở Pháp ra một ấn bản Constitution mới chấp
nhận Tin Lành và các người theo đạo
khác. Nhóm Jacobite tức giận thuyết phục Giáo
Hoàng Clément XII hạ sắc lệnh (bulle = in
amimenti) lên án những tổ chức quần chúng
trong đó mọi tín ngưỡng đều được coi bằng
nhau. Phải chờ tới 1755 thì nhóm Jacobite mới
chết hẳn. Và chính phủ Pháp đã
không còn thân Hanovre nữa, Grande Loge de
France trở nên hoà hoãn cũng như xác
nhận là theo Gia Tô Giáo và cũng công
nhận những cấp cao của Rite Écossais ancien et accepté
(REAA).







C.
Grand Orient de France




Tại
Pháp từ năm 1738 các Franc Maçon họp thành
Grande Loge de France mới có một Grand Maitre đầu tiên
người Pháp là Duc d’Antin. Tới 1771 thì
tại Paris đã có 41 loges và dưới tỉnh có
96 loges, ở thuộc địa Pháp có 5 loges và
trong quân đội có 31 loges. Nhưng rồi sau cũng có
sự chia rẻ, và sau buổi hội ngày 5 Mars 1773,
một nhóm đã ly khai Grande Loge de France để lập
ra Grand Orient de France, ngày một bành trướng
lớn với 400 loges và hơn 30.000 hội viên. Những
nhân vật tên tuổi như Condorcet, Laplace,
Montesquieu, Helvetus, Marmontel và Le Breton, người viết
Encyclopédie, đều là Franc Maçon cả. Tuy họ
không trực tiếp làm cuộc cách mạng 1793
tại Pháp, song Franc Maconnerie đã là lò
nung nấu những tư tưởng tiến bộ, những Lafayette,
Dalton, Mirabeau, Dumoulin thường họp nhau để có một
ý tưởng xã hội chung. Vào thời kỳ đó,
l’élite rationnaliste (lớp trí thức thuần lý)
rất tự hào là Franc Macon. Năm 1890 F.M đã
củng cố cho nền cộng hoà Pháp. Năm 1879, họ
cắt bỏ trong constitution du Grand Orient 1870 đoạn buộc hội
viên phải tin vào Thượng Đế. Điều một của
nội quy mới tuyên bố là, có mục đích
tìm kiếm sự thực, nghiên cứu nền đạo đức
vạn năng (Universelle), khoa học, nghệ thuật. cùng là
làm việc phước thiện. Hội không bỏ ai vì
tín ngưỡng và hội có châm ngôn
là “Tự do, Bình đẳng và Bác ái”
(Liberté, Égalité, Fraternité)




Sự
tu chính này không có ý xua đuổi
người có tinh thần tôn giáo ra khỏi hội,
nhưng lại gây đoạn tuyệt với Grande Loge Unie
d’Angleterre và các chi hội Anglosaxon khác.




Như
vậy là các hôi F.M có chung những biểu
tượng về những tục lệ, song lại có hai khuynh
hướng khác nhau: Một khuynh hướng Anglosaxon tự cho
mình là thứ thiệt tin vào Thượng Đế là
“kiến trúc sư cả” đã vẽ ra các sinh
vật, vũ trụ. Một khuynh hướng thứ hai khoan dung tôn
giáo nhưng theo hiến chương Anderson đầu tiên.
Họ cho rằng F.M phải làm việc để cải thiện con
người và sửa soạn để cải tạo xã hội




D.
Franc Maconnerie trên thế giới




Kể
về sĩ số, Grande Loge d’Angleterre liên kết được
700 loges ở Canada, 400 loges ở Nouvelle-Zélande, 200
loges ở Ấn Độ, tổng cộng khoảng 1 triệu hội viên.




Bên
Mỹ có 4 triệu hội viên, bắt buộc phải có
tôn giáo và vẫn phân biệt chủng tộc.
Người da đen có loge riêng.




Bên
Đức có 400 loges và 30.000 hội viên có
khuynh hướng xã hội và triết học.




Thụy
Sĩ có loge Alpina, theo xu hướng Anh




Tại
Pháp có Grand Orient de France từ năm 1773 với 400
loges, không theo Anh và còn có từ trước
grande loge de France (1738) với 200 loges họ vẫn duy trì
sự vinh danh kiến trúc sư cả của Vũ trụ và
được grande loge d’Angleterre nhìn nhận là hợp
thức (régulier), tuy vậy họ vẫn giữ liên hệ
với loge Grand Orient de France (1738)









II
Tổ chức và sinh hoạt




A-
Tổ Chức




Đơn
vi của Tam Điểm là một loge (chi hội), có
nhiều chi hội trong một địa phương (region). Các
chi hội ở nhiều địa phương họp lại thành đại
hội (convent). Nơi hội họp của một chi hội gọi là
đền (temple), các buổi họp gọi là tenues theo
những thủ tục (rite) còn gọi là tuân thủ
(obédience).




1.
Việc nhập hội và thể thức tuyển lựa




Hàng
năm có hàng trăm người phàm (profanes) nộp
đơn vào hội tam điểm (F.M) có 3 loại ứng
viên: 1: Người được lựa (cooptés) hay được
bảo lãnh (parrainés) thường là thân
nhân của các hội viên đã có
những đức tính tam điểm (F.M): Nhân bản, tương
nhượng (tolérance mutuelle); 2: Ứng viên độc lập
tiếp xúc thẳng với chi hội; 3: Loại ứng viên
không mấy tin tưởng gọi là alimentaire (tạm
dịch là “ăn có”) vào hội để có
mánh mung lợi lộc. Nếu hội đã biết trước
các ứng viên thuộc loại người này, thì
sẽ tìm cách khước từ. Một trong những biện
pháp là phải nộp trước bản tư pháp lý
lịch xem có sạch sẻ, hai là phải qua một cuộc
điều tra. Ba điều tra viên riêng biệt, không
quen biết nhau tới thăm ứng viên đề đào sâu
nhân cách của đương sự. Ngoài những câu
hỏi về lý lịch, học thức, gia cang, họ cũng cử
một người lại tận nhà để coi môi trường
sinh sống của ứng viên, điều này sẽ bộc lộ
nhân cách của đương sự. Họ cũng muốn xem bà
vợ có chống việc gia nhập hội, nếu quả thật là
vậy, thì họ sẽ khuyến cáo đương sự hãy
rút đơn.




Ngoài
lý do cá nhân mà ứng viên đã
nại ra, ứng viên cũng sẽ được hỏi thêm xem
họ có thích dùng những biểu tượng, và
các tính cách bí truyền, cùng là
có kiên trì với các công tác
nghiệp đoàn và công tác chính
trị không? tức là muốn vươn mình lên
cao và có xu hướng triết lý. Sau khi hoàn
tất nhiệm vụ, các điều tra viên làm bá
cáo với chi hội trưởng. Thường là ngay buổi
tối hôm đó, phàm nhân được triệu
tới Hội. Anh ta được bịt mắt bằng một khăn lụa
đen, rồi đưa vào đền, vì hai lý do: Thứ
nhất, ứng viên không được biết người chung
quanh, vì trong các chiến dịch chống Tam Điểm
nhiều anh em (huynh đệ) đã bị nhận diện rồi đưa
vào trại tập trung; thứ hai, là để ứng viên
tập trung vào các câu hỏi được đặt ra,
anh ta sẽ phải trả lời mọi câu hỏi của các
hội viên, về một vài chi tiết trong vụ điều
tra, về sự nhận định thời cuộc, về cuốn sách
sau cùng mà anh đã đọc…Sau buổi vấn
đáp đương sự được dẫn ra và chờ ở ngoài
để hội đồng thảo luận và bỏ phiếu bằng các
trái cầu mầu đen, mầu trắng (do đó có
chữ blackbouler), nếu bị khước từ thì sáu
tháng sau, đương sự có thề nộp đơn lại.
Qua 3 lần bị khước từ thì đương sự không
còn hy vọng nhập hội.









2.
Các hội viên




a)
Tập nghề: Đã là hội viên thì phải
mang tạp-dề (tablier) quấn ngang bụng và mang bao tay
(gant) trắng. Điều luật đầu tiên là phải giữ
yên lặng. Nếu có ý kiến gì thì
phải viết ra giấy đưa cho thầy nghề đọc. Là tập
nghế, thợ bạn hay thầy nghề đều có dấu hiệu
riêng. Sau thời gian tập nghề một năm, thì sẽ
được lên cấp thợ bạn. Muốn như vậy, đương sự
phải trình bày một công trình đã
hoàn toại, và tỏ ra đủ kiến thức trong cấp
bậc của mình.




b)
Thợ bạn: Khác người tập nghề, thợ bạn có
thể nói lên những ý kiến của mình
nhưng chưa được hưởng hết quyền của một F.M. Chỉ
sau khi đã hoàn toại những công tác
và có những kiến thức của cấp bậc của
mình, thì thợ bạn mới được tăng cấp lên
bậc thầy và được hưởng toàn quyền của
một F.M.




c)
Thầy nghề: Làm thầy không phải là cứu
cánh (mục tiêu tối hậu), nhưng là phải
nhận thêm trách nhiệm: giúp tập nghề và
thợ bạn tiến lên trong nghề và phải siêng
năng để làm gương. Muốn chi hội hoạt động được
thì phải có ít nhất là từ 5 cho tới
7 thầy nghề và 2 thợ bạn. Là thầy nghề có
thể xin làm chức sắc (officier) có thể đại
diện cho chi hội đi dự đại hội địa phương hay đứng
ra lập các chi hội (loge) khác. Muốn hợp pháp,
các hội viên sang lập phải được giấy chứng
nhận của cấp trên, tên của chi hội thường là
tên của một nhân vật F.M có tiếng
(Lafayette, Mozart, Voltaire v.v..), tên một vĩ nhân
(Copernic, Gallilé, Conficius) hay một đức tin
(Philantropie, Droit et Rectitude, Raison et Laicité v.v…)




3.
Các chức sắc (Officiers) tay cầm vồ (maillet) hay đeo
kiếm (glaive)




Một
loge được một đoàn các chức sắc tác
động, các chức sắc này được lựa chọn từ
các thầy nghề và cứ một năm bầu lại một
lần:




1)
Ông Hội trưởng còn gọi là Vénérable
(Tôn huynh) điều khiển công tác, có
quyền cho nói hay không, coi việc giao dịch thư
từ và cho “ánh sáng” (lumìère)
tức là cho khai tâm kết nạp và cho tăng
cấp. Hội trưởng không giữ chỗ quá 3 năm.




2)
Đệ nhất giám thị: Huấn luyện viên các
thợ bạn




3)
Đệ nhị giám thị: Huấn luyện viên các
tập nghề




4)
Diễn thuyết viên (orateur) là người duy trì
constitution (hiến chương) của hội lo việc áp dụng
nghiêm túc các luật lệ và các
obédience (tuân thủ) tức là các tục
lệ. Sau lúc thảo luận, ông phải cho biết kết
luận là thế nào rồi mới có cuộc bỏ
phiếu.




5)
Ông thư ký: Lo việc hành chánh, làm
biên bản buổi họp vào “sổ kiến trúc”
(livre d’architecture) của chi hội.




Ông
Thủ 6) quỹ: Thâu tiền niên liễm và quản
lý tiền nong của hội




7)
Ông Hospitalier (ông Hiếu khách) lo chuyện
quyên tiền giúp các hội viên gặp khó
khăn, hoặc cho vay (với sự đồng ý của hội
trưởng), lo chuyện thăm viếng các hội viên gặp
đau ốm.




Cool
Ông Chuyên gia (expert) xưa còn gọi là
Hắc huynh (frère Terrible) kiểm soát phẩm cách
tam điểm các khách tới thăm chi hội và
xem xét các công việc có hợp pháp
không, ông tổ chức và định các lễ
khai tâm kết nạp thi hành các thủ tục cho
nghiêm túc. Sự nhìn nhận phẩm cách
tam điểm có được không là tùy ở
ông này.




9)
Ông Nghi lễ trưởng (maitre de cérémonie) phụ
tá cho ông Chuyên gia làm các tạp
dịch (xếp đặt các lễ vật) lúc nào
cũng đi vào trước, đi đầu trong mọi buổi họp




10)
Ông Bao quản (le couvreur) cho các anh chị em được
vào đền, thường là một cựu chức sắc. Ông
lãnh những việc quan trọng nhất cũng như việc đê
tiện nhất, như là người giữ cửa, chỉ mở cửa
sau khi đã kiểm soát phẩm cách của khách
vào




11)
Ông Trưởng ban Yến tiệc, tổ chức các bữa ăn
(agape officielle) nhân ngày khai tâm kết nạp,
tiệc hằng năm vào đông chí hay hạ chí
(solstice)









B
Sinh hoạt





1.
Buổi họp (Tenues)




Phần
lớn trong các buổi họp, chỉ có những người
kết nạp mới được vào, song có một vài
buổi, người phàm có thể tới được gọi là
“tenue blanche” và chỉ có một người. Nếu
có một diễn giả (conférencier) từ ngoài
vào nói chuyện thì được gọi là
tenue blanche fermée. Nếu có người phàm tới
nghe buổi nói chuyện thì gọi là tenue
blanche ouverte. Nếu là tenue blanche fermée thì
diễn giả người phàm chưa vào được ngay, mà
phải chờ hội viên làm nghi lễ và chấp
nhận biên bản kỳ họp trước đã. Một diễn
giả đã thuật lại thế này: “Tôi được
hai chức sắc cao cấp đưa vào đền có trang
hoàng nhiều cờ suý (bannière) và có
đèn cầy thắp lên biểu tượng cho ánh
sáng. Nhiều hội viên cầm các giây gù
(cordon), những trang trí này giống như những
giải lụa mầu, để gợi lại những ngành nghề
thời Trung cổ. Có vài người đeo những dấu
hiệu có nhiều màu sắc khác nhau tuỳ theo
tổ chức và đẳng cấp, Ở bốn góc tấm thảm
(đặt giữa phòng có thêu các biểu
tượng tam điểm) là ba cái cột (colonnette) biểu
hiệu cho force (dũng), sagesse (trí) và beauté
(mỹ) là ba nền móng của đền Salomon. Cây
cột thứ tư không có ở đây, là biểu
tượng cho công việc của con người cần được tiếp
tục xây cất. Ông Hội trưởng (Tôn huynh =
Venérable) ngồi ở cuối đền, chủ toạ buổi họp.
Tôi là diễn giả ngồi bên phải, bên
trái là ông thư ký, loáy hoáy
ghi chép hoài. Buổi họp hoàn toàn
lặng lẽ. Khi mọi người được phép ngồi, ông
chủ tịch mới nói vài lời chào mừng;
sau đó tôi mới diễn thuyết. Người ta đã
cho tôi biết trước là cử toạ sẽ không
tỏ thái độ gì: hoan nghênh hay đả đảo.
Tôi đã thuyết trình trong sự im lặng hoàn
toàn, một điều hiếm có! Sau đó là
lúc đặt câu hỏi và trả lời. Người nói
phải xin phép ông chủ tịch, qua ông giám
thị, như thế quả là mất thời giờ, song cũng tốt
để cho người đặt câu hỏi sao cho chín chắn
và rành rọt. Mọi người bày tỏ ý
kiến một cách lịch lảm, lễ độ và tôn
trọng ý kiến người khác, không ai được
ngắt lời ai, và không được tỏ ý tán
thành hay không tán thành khi không
được phép nói. Khi ông chủ tịch cho bế
mạc, tôi được ông chủ tịch cám ơn và
được đưa ra ngoài. Phải nhìn nhận là
tôi đã bị nhiều ấn tượng với không khí
lịch lãm và khả ái của họ”









2.
Phòng suy ngẫm (Cabinet de réflexion):




Một
tiểu tiết kỳ thú của đền F.M. là phòng
suy ngẫm. Đó là một phòng kín, tối
om, có thắp một ngọn nến (đèn cầy) để đưa
người phàm vào hai lần, một lần đầu tiên
trước khi bịt mắt, lần thứ hai vào ngày khai
tâm, kết nạp. Phòng sơn đen, có các
rèm mầu xậm, có vẻ hắc ám ghê sợ,
trong phòng có một cái bàn và
cái ghế, trên tường có các khẩu
hiệu kỳ lạ. “Nếu chỉ vì tò mò mà
vào thì hãy đi ra” “Nếu anh chỉ muốn
phân cách người ta thì hãy đi ra”.
Nhiều biểu tượng được đặt trên bàn: Một
sọ người, biểu tượng cho sự chết, cũng như là
liên tưởng cho tư tưởng (la pensée), và sự
huyền ảo (la vanité) (Ta đã là thứ mà
anh đang là - Anh sẽ là cái mà ta đang
là). Người ta cũng thấy những bát nhỏ đựng
muối, lưu huỳnh (souffre) và thuỷ ngân (mercure).
Thuỷ ngân gợi tính chất kim loại của mọi
vật, lưu huỳnh gợi tính chất dễ cháy. Muối
biểu tượng cho sự khôn ngoan và là gạch
nối giữa thuỷ ngân và lưu huỳnh. Một tấm
gương để phản chiếu lại châm ngôn của
Socrate: “Tự anh hãy biết lấy anh” (connnais-toi toi
même) hay là câu châm ngôn của F.M.
là: “Hãy tự nhìn anh như là chính
anh tự tại” (Regardez vous, tel que vous êtes en
vous-même). Thứ này để biểu tượng sự tự
biết mình để có tiến bộ, đi vào được
tâm thức (conscience) của chính mình, và
cũng kiến thức được (connaisance) cái vô hình
(invisible) và cái thế giới vô tại (le
monde de l’irréalité). Một tấm gương dùng
sai, chỉ phục vụ cho cái hư ảo, cho tính kiêu
căng, cho sự tự mê (narcicisme), cho sự làm dáng
(coquetterie) là những tính xấu đã kìm
hãm sự tiến bộ của nhân cách
(personalité). Cũng trong phòng suy ngẫm, người
ta còn thấy có nước và bánh mì,
là những thực phẩm căn bản cho đời sống. Sự
nhận định bản-thân, và sự vấn tâm, đều
rất cần thiết để tiến bộ. Vẻ khắc khổ của phòng
ốc đưa người phàm tới sự suy ngẫm về biểu
tượng các vật cùng là sự thành tâm
của lời cam kết.









3.
Những biểu tượng và những tục lệ:




Sự
giáo huấn của F.M. không phải là một học
thuyết mà là một phương pháp đi tìm
sự hiểu biết qua những biểu tượng. Khi làm việc,
các cấp thấp (tập nghề, thợ bạn, thầy thợ)
dùng các biểu tượng của nghề nghiệp như
équerre, compass, niveau, thước đo v.v…Người ta cũng
thấy các biểu tượng có nguồn gốc tôn
giáo, đúng hơn là theo Thánh kinh: Thí
dụ như hình tam giác sáng chói (delta
lumineux) và hình tam vị (triangle divin) Ở giữa
hình đôi khi còn ghi bốn chữ là
Y.H.V.H. tức là chữ Hébreu (Do Thái xưa)
viết tắt của Yod, Hé, Vay, Hé. Hình sao
năm cánh (pentagramme) (2), các con số 3,5,7, các
mật chú (mots sacrés) những mật hiệu (mots de
passe) một khối đá thô thiển để nhắc nhở
là phải đẽo, mài, dũa mới xây được
đền, hai cây cột có tên là boaz và
jakin (theo huyền thoại). Trong tục lệ York bên Anh,
những cột này đều rỗng để chứa các tài
liệu và lưu trữ văn khố. Lại có loge dùng
3 cây cột để biểu tượng cho ba thứ Trí
(sagesse), Dũng (force) và Mỹ (beauté). Họ cũng
dùng các vật khác như cây keo (acacia),
hoa hồng, hoa huệ (lys) và cành ô-liu. Sự
dùng gươm (glaive) trong các lễ tấn phong
(consécration) một hội viên mới, lại là
một biểu tượng khác, lấy từ lễ trao binh giáp
(adoubement) cho các hiệp sĩ thời Trung cổ.




Những
hội viên cấp trên thì theo những thủ tục
như Rite Écossais ancien et accepté với 32 bực,
rite York, rite français, rite anglo saxon, mục đích
là làm nẩy nở sự phát triển tinh thần
maçonnique bằng cách cho thêm vào những
hình thức khai tâm cổ điển của nhóm
Rose-Croix hay rosae crucis (chữ thập hoa hồng bên Đức
thời xưa




Những
biểu tượng này cần để truyền đạt các
luật lệ, những tiến trình tế nhị, những sự
thật siêu việt, không thể diễn tả được bằng
lời, đó cũng là dùng cái biết mà
đi tới cái không biết, cái thấy được
mà đi tới cái không thấy được, cái
hữu tận đi đến cái vô tận vậy. Nói
một cách khác, họ không học nhưng mà
linh cảm thấy.




Trong
khi sinh hoạt, họ tôn trọng nguyên tắc bình
đẳng. Khi hội họp, họ đưa ra trình bày thảo
luận các vấn để đã được tổ chức chi
phối và phải tuân thủ (obedience) và đưa
ra quyết định cho sự sinh hoạt của hội. Họ cho là
nhờ vào phương pháp cùng nhau suy nghĩ,
giữa những lớp người có nguồn gốc khác
nhau, thì những buổi học hỏi sẽ rất hữu ích,
khó mà có thể có được ở ngoài
đời.




Tánh
cách kỳ bí của F.M. mà người đời cho
là để che đậy những điều bất chính, thực
ra là điều cần thiết để bảo đảm cho các
công tác của họ được tiến hành một
cách thanh tịnh và trong sáng, tránh sự
xô bồ náo nhiệt của xã hội bên
ngoài. Thực ra, họ không tách rời thế
tục. Với sự đoàn kết trong công tác, sự
đấu chung các tư duy, họ cho là họ sẽ làm
việc hữu hiệu hơn và một khi F.M. đã đào
luyện cho con người khá hơn thì tất nhiên
F.M. cũng sẽ phục vụ bá tánh hữu hiệu hơn.




Hai
lý do lịch sử của việc giữ kỳ bí của F.M
là: 1) để cho họ dễ nhận nhau, 2) vì còn
nhớ những vụ chiến tranh tôn giáo truy hại
nhau, và việc triệt hạ tận gốc các tư tưởng
tự do thường có ở các chế độ độc tài,
nên các hội viên F.M vẫn thấy cần phải
ẩn mình để bàn luận về những đề tài
nhậy cảm. Tuy vậy, ngày nay, những tập tục và
những tiến trình kết nạp đã được phổ
biến từ lâu khiến cho không còn là
một bí mật, ngoài ra sự thâm hiểu công
phu về tiến trình học tập Tam điểm lại khó
có thể truyền thông được, nếu chưa sinh hoạt
trong hội.




Ngày
nay, F.M. phải được coi là một tổ chức kín
đáo (discret) chứ không phải là một hội
kín (secret). Người hội viên có quyền tự
tiết lộ, nhưng không được phép tiết lộ các
đoàn viên khác hiện tại còn sống.








4.
Những vấn đề trong tương lai.





Nhưng
một khi thu mình vào hội, tránh những giao
động bên ngoài để bảo quản những truyền
thống tinh thần và đạo đức của họ thì các
franc maçons cũng sẽ bị tiến hoá của xã
hội bên ngoài đe doạ; những giá trị tinh
thần mà họ đã dựng lên như tinh thần
nhân bản (humanisme) phóng khoáng
(libéralisme), cá nhân chủ nghĩa
(individualisme) lại bị cái xã hội của khối
đông (la masse) ngày nay tấn công (Khối Gia
Tô Giáo, khối Cộng sản, khối Đức Quốc xã,
khối Hồi Giáo gần đây). Các cấu trúc
xã hội cũng phức tạp hơn cũng như các kiến
thức con người về không gian, vũ trụ, vật lý,
sinh học (gènes) cũng đã tiến hơn. Qua lịch
sử, F.M. đã có những bức thăng trầm, và
bị đầy đoạ, nhưng họ vẫn còn tin tưởng rằng
họ là một lực lượng tinh thần có đủ khả
năng để thích nghi với sự biến thể của xã
hội và thế giới.




Hình
các biểu tượng:




Trích
Historia Special N48 Juillet-Aout 1997 trang 68-69)









Illuminati BieutuongtamdiemHình
1: Equerre là biểu tượng của sự ngay thẳng và
của vật chất. Người Tam điểm xây dựng đời mình
dùng equerre để hướng dẫn đạo đức cho mình.



Hình
2: Compas, biểu tượng tinh thần cởi mở cần thiết khi
khai tâm kết nạp. Đó cũng là biểu tượng
của quảng trường kiến thức.



Hình
3 Quả rọi bảo đảm sự thăng bằng của cơ cấu xây
cất. Đệ nhị thư ký đeo trên người với sứ
mạng hướng dẫn tập nghề.



Hình
4 Hai bút lông bắt chéo là trang trí
đeo trên người của ông thư ký
Hình
5 Đồ trang trí đeo trên người của đệ nhất
thư ký để biểu tượng sự bằng ngang
(horizontalité) trong việc làm với các thợ
bạn.



Hình
6 Chìa khoá là đồ trang trí của thủ
quỹ.



Hình
7 Equerre và Compas quyện vào nhau biểu tượng
vật chất và tinh thần không thể tách rời
nhau.



Hình
8 Chữ G là chữ cái đầu của God (Thượng đế)
kiến trúc sư của cả vũ trụ. Còn người dưng
thì là Géométrie hay là gnose
(nhận thức)



Hình
9 Ngôi sao năm cánh đỏ rực tượng trưng người
được khai tâm đã toả sáng cả bóng
tối)



Hình
10 Tạp dề là trang phục của thợ xây cất,
ngừa tai nạn, cũng có nghĩa là ngừa sự thiếu
minh mẫn. Tạp dề này ở thế kỷ XIX gợi lại việc
Hiram bị ám sát.



Hình
11 Tạp dề của thầy thợ thế kỷ XVIII có hòn
đá thợ liên tưởng người phàm, hòn
đá đẽo biểu tượng người được khai tâm. Ở
giữa là dụng cụ xây cất và cái
cột, biểu tượng kiến trúc.



Hình
12 Tạp dề của thầy thợ ở thế kỷ XIX, có hình
đền Salomon, hai bên có mặt trăng, mặt rời,
tượng trưng cho sự đi từ bóng tối tới ánh
sáng.




[1]
Miễn là franchise hay là franc (franc-port: miễn
thuế hải quan) Franc Maconnerie: tạm dịch là đặc
miễn xây cất.



[2]
Pentagramme: Hình sao năm cánh trong truyền thống
th ên chúa giáo dùng để chỉ định 5
vết thương hay stigmates của Chúa còn đối với
đệ tử của Pythagore thì là để chỉ ngũ đại
thể đất, lửa, thủy, khí và ý (hay chose
divine). Có người còn cho là chỉ 5 cuốn
sách đầu tiên của Cựu Ước hay là ấn
tín của Salomon.
Về Đầu Trang Go down
rua_93
Đỗ tốt nghiệp
Đỗ tốt nghiệp
rua_93

TV :
  • CT 08-11

Tổng số bài gửi : 1511
Reputation/Uy tín (Danh tiếng) : 185
Join date : 05/06/2009
Age : 30
Đến từ : Chiến trường đầy những xác rùa
Job/hobbies : buôn bán lậu rùa quý hiếm
Humor/Tâm trạng : biết chết liền
GDM GDM : 9714

Illuminati _
Bài gửiTiêu đề: Re: Illuminati   Illuminati Empty08/04/10, 10:21 pm

Loading
êu! sửa lại pài đê, mod mà để thế nè ngượng chết
Về Đầu Trang Go down
Khách vi
Khách viếng thăm



Illuminati _
Bài gửiTiêu đề: Re: Illuminati   Illuminati Empty09/04/10, 11:33 am

Loading
m làm mod thì sửa đi
Về Đầu Trang Go down
minh_ilm
Giáo sư Tiến sĩ Khoa học
Giáo sư Tiến sĩ Khoa học
minh_ilm

TV :
  • CT 08-11

Tổng số bài gửi : 4445
Reputation/Uy tín (Danh tiếng) : 561
Join date : 02/06/2009
Age : 31
Đến từ : Nhà Ga 9 3/4
Job/hobbies : Ăn + Chơi
Humor/Tâm trạng : Tốt bụng cực kỳ
GDM GDM : 26851

Illuminati _
Bài gửiTiêu đề: Re: Illuminati   Illuminati Empty23/05/13, 06:02 pm

Loading
Quá là dài. Mãi mới đọc xong.
Về Đầu Trang Go down
http://1kho.com
Sponsored content




Illuminati _
Bài gửiTiêu đề: Re: Illuminati   Illuminati Empty

Loading
Về Đầu Trang Go down
 

Illuminati

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn đàn học sinh chuyên Toán (08-11) - Trường THPT chuyên Hoàng Văn Thụ - Hòa Bình :: CT 08-11: TIN TỨC MỌI NƠI (INFORMATION EVERY WHERE) :: Thế giới đó đây-
Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất